Cây đinh lăng được coi là “nhân sâm của người nghèo”, không chỉ được sử dụng làm rau sống mà còn là vị thuốc có tác dụng bồi bổ sức khỏe, chữa được nhiều chứng bệnh.
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá, nam dương sâm.
Tên khoa học Polyscias fruticosa (L.) Harms (Panax fruticosum L, Nothopanax fruticosum (L) Miq., Tieghentopanax fruiticosus (L.) R. Vig.
Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.
Dùng rễ hay vỏ rễ phơi hoặc sấy khô của cây đinh lăng.
Mô tả cây
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá vì nhân dân thường lấy lá để ăn gỏi cá (nhưng tên đinh lăng phổ biến hơn). Là một loại cây thân nhỏ, thân nhẵn, không có gai, thường cao 0,8 – 1,5m. Lá kép 3 lần xẻ lông chim dài 20 – 40cm, không có lá kèm rõ. Lá chét có cuống gầy dài 3 – 10mm, phiến lá chét có răng cưa không đều, lá có mùi thơm. Cụm hoa hình chùy ngắn 7 – 18mm gồm nhiều tán, mang nhiều hoa nhỏ. Tràng 5, nhị 5 với chỉ nhị gầy, bầu hạ 2 ngăn có dìa trắng nhạt. Quả dẹt dài 3 – 4mm, dày 1mm có vòi tồn tại. Đinh lăng được trồng phổ biến làm cảnh khắp nước ta, mọc cả ở Lào và miền nam Trung Quốc.
Trước dây không thấy dùng làm thuốc, gần đây do sự nghiên cứu tác dụng bổ mới bắt đầu được dùng. Thường đào rễ, rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô
Thành phần hóa học: trong đinh lăng có các alcoloid, glucozit, saponin, flavonoid, tanin, vitamin B, các axít amin trong đó có lyzin, xystei, và methionin là những axít amin không thể thay thế được (Ngô Ứng Long – Viện Quân y, 1985).
Tác dụng dược lý: năm 1961, các khoa dược lý, dược liệu và giải phẫu bệnh lý Viện Y học quân sự Việt Nam nghiên cứu tác dụng của đinh lăng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể và một số tác dụng khác đã đi đến kết luận sau:
Nước sắc rễ đinh lăng có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể trên thí nghiệm cấp tính tương tự nhân sâm. Tam thất và các cây khác cùng họ có tác dụng làm tăng tính dẻo dai của cơ thể (thí nghiệm trên chuột mìn tròn lội nước theo phương pháp thí nghiệm cấp tính của I. I Bredman). Nhưng trên thí nghiệm trường diễn, tác dụng chóng hết và thường hay tích lũy.
Với liều 0,1mm cao lỏng đinh lăng cho 20g thể trọng sống làm giả hoạt động của chuột nhắt trắng.
Đinh lăng tác dụng trực tiếp trên cơ tim ếch, cô lập (theo phương pháp Straub) với liều nhất định làm giảm trương lực cơ tim, làm tim co bóp yếu và thưa, tiến tới tim ngừng đập.
Dung dịch nước 0,2 – 1% rễ đinh lăng gây co mạch tai thỏ cô lập theo phương pháp Kravkov.
Với liều 0,5ml dung dịch cao đinh lăng 100 – 200% trên 1kg thể trọng tiêm tĩnh mạch vành tai đều tăng cường hô hấp về biên độ và tần số: huyết áp nhất thời hạ xuống.
Trên tử cung tại chỗ, với liều 1ml dung dịch cao đinh lăng 100% cho 1kg thể trọng tiêm tĩnh mạch vành tai làm co bóp tử cung nhẹ.
Đinh lăng có tác dụng tăng tiết niệu gấp trên 5 lần so với bình thường với liều uống 2ml dung dịch đinh lăng 100% cho 100g thể trọng (thí nghiệm trên chuột bạch).
Liều độc: đinh lăng ít độc, so với nhân sâm còn ít độc hơn. Giải phẫu bệnh lý những chuột chết vì liều độc thì thấy tổn thương nặng tổ chức cơ sở các tạng nhất là ở gan, thận, tim, não, cuối cùng chết. Liều độc tiêm phúc mạc DL50 của đinh lăng là 32,9g/kg trong khi đó DL50 của nhân sâm là 16,5g/kg, của ngũ gia bì Liên Xô cũ (Eleutherococcus) là 14,5g/kg, chứng tỏ đinh lăng ít độc hơn 2 vị thuốc nhân sâm và ngũ gia bì Liên Xô cũ. Cho uống với liều 50g/kg thể trọng chuột vẫn sống bình thường. Độc tính trường diễn thấy sung huyết ở gan, tim, phổi, dạ dày, ruột, biến loạn dinh dưỡng tim, gan, thận. trước khi chết có hiện tượng ỉa lỏng, xù lông, mệt mỏi, kém ăn, sụt cân.
Ngô Ứng Long và Xavaev đã cùng nhận thấy đinh lăng có tác dụng tốt đối với các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập trong tư thế tĩnh, đầu dốc ngược.
Thực nghiệm trên người, viên bột rễ đinh lăng làm tăng khả năng chịu đựng của bộ đội, vận động viên thể dục,thể thao trong các nghiệm pháp gắng sức cũng như tập luyện.
Công dụng và liều dùng
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu dược lý, Viện Y học quân sự Việt Nam năm 1964 cho thí nghiệm trên người thấy với liều 0,23 đến 0,50g bột đinh lăng dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu nhẹ độ (300) thì có kết quả tăng sức dẻo dai của cơ thể như khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
Trong nhân dân, ngoài công dụng ăn gỏi cá, có nơi dùng chữa ho, ho ra máu, thông tiểu, thông sữa, kiết lỵ nặng. Tại Ấn Độ, theo K. M. Naikarai, đinh lăng được dùng chữa sốt, làm săn da.
Đơn thuốc
Chữa mệt mỏi, biếng hoạt động: đinh lăng dùng rễ phơi khô, thái mỏng 0,50g, thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Thông tia sữa, căng vú sữa: rễ đinh lăng 30 – 40g, thêm 500ml nước sắc còn 250ml. Uống nóng. Uống luôn 2 – 3 ngày, vú hết nhức, sữa chảy bình thường.
Chữa vết thương: giã nát lá đinh lăng đắp lên.
Chữa sưng đau cơ khớp, vết thương: Lấy 40g lá tươi giã nhuyễn, đắp vết thương hay chỗ sưng đau
Phòng co giật ở trẻ: lấy lá đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm.
Chữa đau lưng mỏi gối: dùng thân cành đinh lăng 20 – 30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây xấu hổ, cúc tần và cam thảo dây.
Chữa liệt dương: rễ đinh lăng kỷ tử, cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8g, sa nhân 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa viêm gan: rễ đinh lăng 12g; biển đậu, rễ cỏ tranh, mỗi vị 12g; nghệ 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa thiếu máu: rễ đinh lăng, mỗi vị 100g, 20g, tán bột, sắc uống ngày 100g bột hỗn hợp.
Chữa dị ứng, ban sởi, ho, kiết lỵ: lá đinh lăng khô 10g sắc chung với 200ml nước, uống trong ngày.
Ho suyễn lâu năm: lấy rễ đinh lăng, đậu săng, tang bạch bì, nghệ vàng, tần dày lá tất cả đều 8g, xương bồ 6g, gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
Dùng rễ đinh lăng với liều cao, sẽ bị say thuốc và xuất hiện cảm giác mệt mỏi, nôn mửa, tiêu chảy.