Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Kết quả nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã xác định được 657 loài, 396 chi, 133 họ thuộc 5 ngành thực vật bậc cao có mạch, bao gồm Lá thông, Thông đất, Dương xỉ, Thông và Ngọc lan. Trong đó, 16 loài có giá trị bảo tồn theo thang đánh giá của Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ của IUCN (2017). Hình thức sử dụng cây thuốc cũng được chia làm 3 nhóm gồm: chia theo bộ phận dùng, phương thức sử dụng và nhóm bệnh chữa trị. Dạng sống của cây thuốc được chia làm 7 nhóm, bao gồm: cây thân thảo có 178 loài (chiếm 27,1%), cây bụi có 139 loài (21,2%), dây leo có 122 loài (18,6%), cây gỗ lớn có 65 loài (9,9%), cây gỗ nhỏ có 138 loài (21%), bán ký sinh có 9 loài (1,4%) và phụ sinh có 6 loài (0,9%).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà nằm trên bán đảo Sơn Trà thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, trong hệ thống rừng đặc dụng quốc gia, với diện tích trên đất liền 4.439 ha và một phần biển (500 m tính từ chân núi ra biển). B.án đảo Sơn Trà nằm phía đông bắc thành phố Đà Nẵng, phía tây bắc giáp vịnh Đà Nẵng, đông bắc giáp biển Đông, tây nam giáp đất liền và cảng sông Hàn. Tọa độ địa lý từ 16005’ đến 16009’ vĩ độ Bắc và từ 108012’ đến 108020’ kinh độ Đông. Hệ sinh thái điển hình của khu bảo tồn là kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới nên có hệ thực vật khá phong phú và đa dạng, đặc biệt nhiều loài có giá trị làm thuốc.
Năm 1997, trong công trình “Điều tra khu hệ động – thực vật và nhân tố ảnh hưởng – Đề xuất phương án bảo tồn sử dụng hợp lý Khu bảo tồn thiên nhiên bán đảo Sơn Trà” của Đinh Thị Phương Anh và cộng sự, đã ghi nhận hệ thực vật của khu bảo tồn có 985 loài, thuộc 483 chi và 143 họ thực vật bậc cao có mạch, trong số này có 143 loài là cây thuốc [1]. Tiếp đó, trong dự án “Bảo tồn đa dạng sinh học KBTTN Sơn Trà” do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện năm 2010 đã thống kê và lập Danh lục thực vật ở bán đảo Sơn Trà cũng bằng với số loài trước đó (985 loài), nhưng nhiều hơn 2 họ (145 họ), và trong đó chỉ ghi nhận có 138 loài cây thuốc . Và mới nhất, đề tài “Đánh giá thực trạng cây thuốc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển” được thực hiện trong 2 năm (2016-2017), Đặng Ngọc Phái và cộng sự đã ghi nhận ở KBTTN Sơn Trà có 302 loài, 231 chi, 101 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch có giá trị làm thuốc.
Hiện nay Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà chịu rất nhiều áp lực từ phát triển kinh tế; việc quy hoạch phát triển du lịch và xây dựng cơ sở hạ tầng là hai yếu tố gây ảnh hưởng nhất đến tính đa dạng sinh học nói chung của Khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc. Do đó, việc nghiên cứu, điều tra để đánh giá tính đa dạng của nguồn tài nguyên cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà nhằm góp phần vào công tác bảo tồn, sử dụng và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên nơi đây là rất cần thiết ở hiện tại và cả trong tương lai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các loài thực vật ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp kế thừa: tập hợp, phân tích, thu thập thông tin từ các công trình khoa học, các kết quả khảo sát đánh giá nhanh, sách, tạp chí, các tư liệu khoa học đã có liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Phỏng vấn PRA: phỏng vấn các thầy lang, thầy thuốc, những người thu hái, mua bán và người dân sống xung quanh KBTTN Sơn Trà về những kinh nghiệm sử dụng các loài cây làm thuốc và các bài thuốc gia truyền.
Thu mẫu ngoài thực địa: tiến hành điều tra theo tuyến ở những sinh cảnh đại diện có sự tham gia của người dân địa phương để thu thập mẫu tiêu bản cây thuốc, làm cơ sở để xác định tên taxon và xây dựng danh lục thành phần loài.
Xử lý mẫu và giám định tên: các mẫu tiêu bản sau khi mang về phòng thí nghiệm, tiếp tục được xử lý và sấy khô nhằm phục vụ công tác lưu trữ và giám định tên. Việc xác định tên khoa học và ghi nhận công dụng của cây thuốc được tiến hành theo phương pháp hình thái so sánh trên cơ sở các tài liệu chuyên ngành như: Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (1999-2000), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam của Đỗ Huy Bích (2006), Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (2009) … đồng thời so mẫu và lưu giữ mẫu ở Bảo tàng thực vật thuộc Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Cập nhật tên khoa học của cây thuốc theo The Plant List (2018). Tổng hợp và lập danh lục cây thuốc theo Brummitt (1992).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đa dạng thành phần loài cây thuốc
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận được nguồn tài nguyên cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà có 657 loài, 396 chi, 133 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch là: Lá thông, Thông đất, Dương xỉ, Thông và Ngọc lan. Trong đó, ngành Lá thông có 1 loài thuộc 1 chi của 1 họ là Quyết lá thông , ngành Thông đất có 1 loài thuộc 1 chi của 1 họ là Quyển bá, ngành Dương xỉ có 27 loài thuộc 17 chi của 13 họ là Ráng tổ điều, Ráng dừa, Ráng mộc xi, Ráng tây sơn, Quạt xoè, Bòng bong, Rau bợ, Móng trâu, Xà thiệt, Cốt toái bổ, Chân xỉ, Ráng yến dực và Ráng thư dực, ngành Thông có 7 loài thuộc 2 chi của 2 họ là Tuế và Dây gắm, ngành Ngọc lan có 621 loài thuộc 375 chi của 116 họ, trong đó có 547 loài thuộc lớp hai lá mầm và 74 loài thuộc lớp một lá mầm.
Bảng 1. Phân bố các taxon trong các ngành thực vật.
Đi sâu nghiên cứu về ngành Ngọc lan cho thấy: lớp Ngọc lan chiếm ưu thế với 547 loài (chiếm 83,3% tổng số loài cây thuốc), 322 chi (chiếm 81,3%) và 98 họ (chiếm 73,7%); trong khi đó lớp Hànhcó tỷ lệ thấp hơn với số loài là 74 (chiếm 11,3%), số chi là 53 (chiếm 13,4%) và số họ là 18 (chiếm 13,5%). Kết quả cho thấy lớp Ngọc lan là lớp có số lượng loài cây thuốc chiếm ưu thế trong ngành thực vật hạt kín cũng như trong toàn hệ thực vật.
Tiến hành phân tích 10 họ và 10 chi có số lượng loài nhiều nhất cho kết quả như sau: ở cấp độ họ, có 10 họ thực vật giàu loài nhất với 275 loài, chiếm 44,9% tổng số loài cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà. Trong đó, họ có số lượng loài nhiều nhất phải kể đến là họ Đậu có 69 loài (chiếm 10,5%), kế đến là họ Thầu dầu có 32 loài (4,9%), họ Dâu tằm có 31 loài (4,7%), họ Cam chanh có 28 loài (4,3%), họ Hoa môi có 26 loài (4,0%), họ Bông có 25 loài (3,8%), họ Cà phê có 19 loài (2,9%), họ Diệp hạ châu có 16 loài (2,4%), họ Trúc đào có 15 loài (2,3%) và cuối cùng là họ Cúc có 14 loài (2,1%).
Ở cấp độ chi, 10 chi có số lượng loài có giá trị làm thuốc nhiều nhất với 82 loài, chiếm 13,4% tổng số loài cây thuốc. Trong đó, chi có số lượng loài nhiều nhất là chi Dâu tằm có 25 loài (chiếm 3,8%); kế đến là chi Cù đèn có 9 loài (1,4%); các chi Cơm nguội, Kim cang và Bình linh (Vitex) mỗi chi có 7 loài (1,1%); chi Lài và chi Ba bét mỗi chi có 6 loài (0,9%); các chi Ráng can xỉ, Tràng quả và Lữ đằng mỗi chi có 5 loài (0,8%).
ĐA DẠNG VỀ DẠNG THÂN CỦA CÂY THUỐC
Theo cách phân chia dạng thân của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997, 2001) thì dạng thân của cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà được chia thành 7 nhóm chính là: cây thân thảo, cây bụi/bụi trườn, dây leo, gỗ lớn, gỗ nhỏ, bán ký sinh và phụ sinh. Trong đó, nhóm cây thân thảo (C) có số lượng loài nhiều nhất với 178 loài, chiếm 27,1% tổng số loài cây thuốc; nhóm cây bụi/bụi trườn (B) có 139 loài, chiếm 21,2%; nhóm dây leo (DL) có 122 loài, chiếm 18,6%; nhóm cây gỗ lớn (GL) có 65 loài, chiếm 9,9%; nhóm cây gỗ nhỏ (GN) có 138 loài, chiếm 21%; nhóm cây bán ký sinh (BKS) có 9 loài, chiếm 1,4% và nhóm cây phụ sinh (PS) có số lượng loài ít nhất với 6 loài, chiếm 0,9%.
ĐA DẠNG VỀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA CÂY THUỐC
Phân chia theo bộ phận dùng: từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi phân chia các bộ phận sử dụng của cây thuốc làm 7 nhóm chính bao gồm: toàn cây, thân – vỏ thân, rễ – vỏ rễ, lá, quả – hạt, hoa và bộ phận khác (tinh dầu, nhựa, bào tử…). Bộ phận được sử dụng nhiều nhất là rễ – vỏ rễ với 346 loài, chiếm 52,7% tổng số loài. Nó có thể được dùng tươi hoặc phơi khô. Kế đến là bộ phận lá với 271 loài, chiếm 41,2%. Thông thường lá sau khi thu hái về được phơi khô và bảo quản đúng quy định để sử dụng lâu dài và tránh giảm tác dụng chữa bệnh. Bộ phận dùng là thân – vỏ thân có 212 loài, chiếm 32,3%. Đây là bộ phận dễ thu hái với nhiều cách sử dụng khác nhau (sắc, hãm chè, nấu nước uống, nấu nước rửa, giã đắp,…). Bộ phận dùng là toàn cây có 197 loài, chiếm 30%, thường là cây thân thảo, dễ thu hái và bảo quản nhất. Bộ phận dùng là quả – hạt có 128 loài, chiếm 19,5%. Ngoài ra, các bộ phận còn lại như hoa, tinh dầu, nhựa, bào tử,… cũng được sử dụng (hoa có 29 loài, chiếm 4,4%; bộ phận khác có 41 loài, chiếm 6,2%) .
Bảng 2. Đa dạng các bộ phận sử dụng cây thuốc.
Phân chia theo nhóm bệnh chữa trị: theo kinh nghiệm y học cổ truyền, một cây thuốc có thể chữa được nhiều bệnh và ngược lại kết hợp nhiều cây thuốc để chữa một bệnh. Theo tài liệu của một số tác giả như: Phạm Hoàng Hộ, Đỗ Huy Bích, Võ Văn Chi, Đỗ Tất Lợi cũng như trong quá trình điều tra nghiên cứu, phỏng vấn các thầy lang, thầy thuốc và người dân địa phương, chúng tôi tạm chia cây thuốc ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà làm 19 nhóm bệnh chữa trị.
Bảng 3. Các nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc.
Từ bảng 3 cho thấy, nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu bảo tồn được sử dụng chữa rất nhiều bệnh. Trong đó, cây thuốc chữa nhóm bệnh ngoài da (mụn nhọt, lở ngứa, sưng viêm…) chiếm tỷ lệ cao nhất (17,1%) với 346 loài và ít nhất là cây thuốc chữa nhóm bệnh tim với 9 loài, chiếm 0,4%. Một số loài cây thuốc được các thầy lang, thầy thuốc và người dân địa phương sử dụng phổ biến để chữa bệnh như Vàng đắng, Hoàng đằng, Lá khôi, Bìm ba răng, Cườm thảo, Bàm bàm lá nhỏ…
Phân chia theo phương thức sử dụng: trên cơ sở tổng hợp các cách chế biến và sử dụng cây thuốc để chữa bệnh mà có thể tạm chia phương thức sử dụng cây thuốc làm 2 nhóm là nhóm dùng ngoài và nhóm dùng đường uống. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, có 418 loài cây thuốc dùng ngoài và 643 loài cây thuốc dùng đường uống (bảng 4). Trong đó, giã đắp là phương thức dùng ngoài có số lượng loài nhiều nhất với 313 loài, và sắc uống là phương thức dùng uống có số lượng loài cao nhất với 561 loài. Theo kinh nghiệm cổ truyền, người dân địa phương có thể sử dụng cây tươi, cây khô hay vừa tươi vừa khô để chữa bệnh. Đối với nhóm cây tươi, thường là cây thân thảo hay cây có bộ phận dùng là lá, hoa, quả dùng giã đắp, bôi ngoài da, xông hơi, nấu nước uống hay làm rau ăn như Dền gai, Cỏ lào, Rau tàu bay, Nhội, Rau đắng, Rau sộp… Đối với nhóm cây khô, cây thuốc thu hái về có thể được chặt nhỏ phơi khô hoặc sao ở các mức độ khác nhau dùng sắc uống, hãm chè, ngâm rượu uống như Hoa sữa, Đại hoa đỏ , Hà thủ ô, Guồi, Ngũ gia bì chân chim, Sói nhẵn, Bàm bàm…
Bảng 4. Các phương thức sử dụng cây thuốc
ĐA DẠNG VỀ NGUỒN GEN QUÝ HIẾM CỦA CÂY THUỐC
Để có chính sách ưu tiên và biện pháp bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc thì việc đánh giá mức độ đe doạ của các loài cây thuốc trong khu vực nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng. Theo Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ IUCN (2017), thì khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà có 16 loài cây thuốc (chiếm 2,4% tổng số loài) có giá trị bảo tồn. Trong đó, có 5 loài được xếp ở thứ hạng Ít nguy cấp – LR (Lower risk), 3 loài được xếp ở thứ hạng Nguy cấp – EN (Endangered), 7 loài được xếp ở thứ hạng Sẽ nguy cấp – VU (Vulnerable), 1 loài được xếp ở thứ hạng Rất nguy cấp – CR (Critically Endangered).
Bảng 5. Các loài cây thuốc cần được bảo vệ.
THẢO LUẬN
Nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà khá phong phú và đa dạng. Chỉ trong phạm vi diện tích rừng khoảng 4.439 ha đã ghi nhận được 657 loài cây thuốc. Trong đó có nhiều loài không chỉ có giá trị khoa học mà còn có giá trị kinh tế cao như Lá khôi , Cà gai leo, Thiên niên kiện, Thiên môn đông Mạch môn, Bách bộ , Vàng đắng
Nếu so với các nghiên cứu trước đó thì nghiên cứu này đã bổ sung một số lượng lớn các loài cây thuốc cho khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, cụ thể là đã bổ sung 355 loài so với nghiên cứu của Đặng Ngọc Phái và cộng sự năm 2017 (302 loài), 519 loài so với nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội năm 2010 (138 loài) và 514 loài so với nghiên cứu của Đinh Thị Phương Anh và cộng sự năm 1997 (143 loài). Đồng thời, nghiên cứu cũng đã bổ sung mới 47 loài cây mới có tác dụng làm thuốc so với các nghiên cứu trước đó, nâng danh lục thực vật của khu bảo tồn từ 985 loài lên 1.032 loài.
Điều đặc biệt là trong số các loài được ưu tiên bảo tồn, tình trạng quần thể của 3 loài: Hoàng đằng , Lá khôi, Tuế Sơn trà gần như còn nguyên trạng. Đây là thực tế hiếm thấy trong các quần hệ rừng khác ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh sự đa dạng về giá trị nguồn gen, tài nguyên cây thuốc ở đây còn có giá trị sử dụng cao dùng làm nguồn nguyên liệu chiết xuất các hợp chất tự nhiên có hoạt tính cao được dùng để làm thuốc như: Vàng đắng dùng để chiết xuất berberin, Hoàng đằng (Fibraurea recisa Pierre) chiết palmatin. Các hợp chất này thuộc nhóm alkaloid có tác dụng chữa tiêu chảy, lỵ, nhiễm khuẩn đường tiêu hoá. Chóp mao chứa các hợp chất terpenoid có tác dụng hạ đường huyết. Ngũ gia bì chân chim dùng làm nguyên liệu chiết xuất các hợp chất saponin có tác dụng lợi tiểu, chống viêm. Ngoài ra còn nhiều loài cây thuốc khác có chứa các hợp chất tự nhiên có tác dụng chữa bệnh.
Hiện nay KBTTN Sơn Trà có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái nên việc quy hoạch phát triển du lịch và xây dựng một số cơ sở hạ tầng khác đã làm thu hẹp và chia cắt địa hình, ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên nơi đây, nhất là tài nguyên cây thuốc.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà có 657 loài, 396 chi, 133 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch là: Lá thông , Thông đất, Dương xỉ, Thông và Ngọc lan. Trong đó có 47 loài cây mới so với các nghiên cứu trước đây, nâng danh lục thực vật của khu bảo tồn từ 985 loài lên 1.032 loài. Đồng thời, nghiên cứu cũng đã ghi nhận được 16 loài cây thuốc có giá trị bảo tồn theo thang đánh giá của Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ của IUCN (2017).
Có 7 nhóm dạng thân chính gồm nhóm thân thảo, cây bụi, dây leo, cây gỗ lớn, cây gỗ nhỏ, bán ký sinh và phụ sinh.
Đã ghi nhận được 7 nhóm bộ phận sử dụng, 2 phương thức dùng và 19 nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc.